Central Bank – Ngân hàng trung ương và tác động của nó đến thị trường Forex

Central Bank – Ngân hàng trung ương là một cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, được độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, với mục tiêu cơ bản là ổn định, an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng

Central Bank – Ngân hàng trung ương và tác động của nó đến thị trường Forex

Trong nền kinh tế toàn cầu nói chung và Việt Nam nói riêng, không thể phủ nhận vai trò không thể thiếu của Central Bank – Ngân hàng trung ương (NHTW). Đặc biệt đối với thị trường Forex, Central Bank được xem là một trong những nhân tố có tác động mạnh lên tỷ giá tiền tệ, do đó các Forex trader theo trường phái phân tích cơ bản hoặc phân tích toàn diện cần đặc biệt quan tâm.

Trong bài biết này, chúng tôi sẽ cùng bạn tìm hiểu Central Bank – Ngân hàng trung ương là gì ? Các chức năng chính của Ngân hàng trung ương cũng như tác động của nó như thế nào đến thị trường Forex.

Central Bank – Ngân hàng trung ương là gì ?

FED – Cục dự trữ liên bang Mỹ – Ngân hàng Trung Ương của Mỹ

Central Bank – Ngân hàng trung ương là một cơ quan thuộc bộ máy nhà nước, được độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng, với mục tiêu cơ bản là ổn định và an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng đồng thời góp phần vào sự ổn định chung của hệ thống tài chính.

Ngân hàng trung ương cũng có thể được giao những nhiệm vụ khác tùy theo cơ cấu và môi trường tài chính của đất nước. Hầu hết các ngân hàng trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước, nhưng vẫn có mức độ độc lập nhất định đối với Chính phủ.

Hai chức năng cơ bản nhất mà các Central Bank thực hiện gồm: là ngân hàng của quốc gia và thực hiện chức năng quản lý vĩ mô các hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng nhằm đảm bảo sự ổn định tiền tệ và an toàn cho cả hệ thống ngân hàng. Nhờ vậy, các mục tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế được thực hiện.

Trong đó, Ngân hàng trung ương thực hiện chức năng quản lý không chỉ đơn thuần bằng các luật lệ, hay các biện pháp hành chính, mà còn thông qua các nghiệp vụ mang tính kinh doanh sinh lời. NHTW có các khoản thu nhập từ tài sản có của mình bao gồm: chứng khoán chính phủ, cho vay chiết khấu, kinh doanh trên thị trường Forex, v.v.

Mặc dù hai mặt quản lý và kinh doanh luôn gắn chặt với nhau trong tất cả các hoạt động kinh doanh của Central Bank song tính chất kinh doanh chỉ là phương tiện nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý chứ không phải là mục đích của NHTW. Hầu hết các khoản thu nhập của ngân hàng trung ương, sau khi trừ các chi phí hoạt động, đều phải nộp vào ngân sách nhà nước.

Tóm lại, mục đích hoạt động của NHTW không phải là kinh doanh kiếm lợi nhuận mà là ổn định lưu thông tiền tệ, tín dụng và hoạt động của các ngân hàng thương mại từ đó tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

Lịch sử ra đời của Central Bank và Ngân hàng trung ương đầu tiên trên thế giới

Ngân hàng trung ương ra đời chính thức đầu tiên ở châu Âu, vào thế kỷ 17. Khi ấy, tiền mặt lưu hành vẫn chủ yếu dưới dạng vàng và bạc, tuy rằng, các tờ cam kết thanh toán (promises to pay) đã được sử dụng rộng rãi như là những biểu hiện của giá trị ở cả Châu Âu và Châu Á. Từ khi các quốc gia nhận ra sức mạnh của hàng hóa xuất khẩu và lợi ích của việc nhập khẩu, khái niệm kinh tế đã thay đổi cách vận hành của thế giới.

Ngân hàng trung ương được ra đời một cách tự nhiên vì nhu cầu kiểm soát giá trị của tiền. Ngân hàng trung ương đầu tiên là Ngân hàng Thụy Điển – Riksbank (Bank of Sweden) ra đời năm 1668 với sự giúp đỡ của các doanh nhân Hà Lan, năm 2018 vừa qua Riksbank đã kỷ niệm 350 năm thành lập ngân hàng này.

Riksbank – Central Bank lâu đời nhất thế giới

Các ngân hàng trung ương lớn nhất và có tầm ảnh hưởng đến thị trường tiền tệ toàn cầu

  • FED – Federal Reserve System: Cục dự trữ liên bang Hoa Kỳ hay ngân hàng trung ương của Hoa Kỳ – được thành lập ngày 23/12/1913 được coi như một “cỗ máy in tiền” và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến kinh tế toàn cầu.
  • ECB – European Central Bank: Ngân hàng trung ương Châu Âu – được thành lập vào năm 1998, là Ngân hàng trung ương đối với đồng Euro và điều hành chính sách tiền tệ của các quốc gia thuộc khu vực đồng Euro.
  • PBoC – People’s Bank of China: Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc – được thành lập vào ngày 1 tháng 12, 1948, là NHTW của nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới, PBoC có lượng tài sản tài chính nhiều hơn bất cứ định chế tài chính công cộng nào trong lịch sử thế giới.
  • BoJ – Bank of Japan: Ngân hàng trung ương Nhật Bản – phát hành tiền tệ đầu tiên vào năm 1885, có trụ sở tại Tokyo, chịu trách nhiệm phát hành, điều tiết tiền tệ và chứng khoán kho bạc, thực hiện chính sách tiền tệ, duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính Nhật Bản.
  • BoE – Bank of England: Ngân hàng trung ương Vương Quốc Anh – được thành lập vào năm 1694, đây là ngân hàng trung ương lâu đời thứ hai hoạt động ngày nay.
  • BoC – Bank of Canada: Ngân hàng trung ương Canada – được thành lập năm 1934 theo Đạo luật Ngân hàng Canada
  • RBA – Reserve Bank of Australia: Ngân hàng quốc gia Úc – được thành lập ngày 14 tháng 1 năm 1960 sau khi Đạo luật Ngân hàng Dự trữ Úc năm 1959 truất bỏ chức năng ngân hàng trung ương của Ngân hàng Liên bang Úc và giao cho Ngân hàng Trữ kim.

Ngân hàng thanh toán quốc tế – BIS

Ngân hàng thanh toán quốc tế – The Bank for International Settlements (BIS) là tổ chức quốc tế của các ngân hàng trung ương, thậm chí có thể nói nó là ngân hàng trung ương của các ngân hàng trung ương trên thế giới với nhiệm vụ giám sát mọi hoạt động chuyển tiền trên toàn thế giới. BIS đảm bảo các chính sách tiền tệ của từng khu vực sẽ được thực thi đúng theo kế hoạch và lộ trình.

Được thành lập năm 1930 theo Hiệp ước Hague và có trụ sở chính tại Basel, Thụy Sĩ, BIS cũng cung ứng các dịch vụ ngân hàng, nhưng chỉ cho ngân hàng trung ương, hoặc các tổ chức quốc tế tương tự nó.

Các ngân hàng Trung Ương phối hợp hoạt động thông qua các kỳ họp thường xuyên của BIS. BIS thường thảo luận về các vấn đề và chính sách mang tính toàn cầu nhưng đôi khi, họ cũng thảo luận về các vấn đề mang tính chất địa phương trong các kỳ họp.

BIS – Ngân hàng thanh toán quốc tế

Các chức năng chính của Central Bank – Ngân hàng trung ương

Ngân hàng Trung ương sẽ chịu trách nhiệm hoàn toàn về các chính sách tiền tệ trong một quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Quyền hạn sẽ bao gồm lãi suất và kiểm soát thanh khoản những yêu cầu dự trữ và hoạt động thị trường mở. Là một bộ phận cơ quan quyền lực của Nhà nước, Central Bank trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý và lưu thông tiền tệ hay còn gọi là chính sách tiền tệ bao gồm những chức năng chính sau:

Độc quyền phát hành giấy bạc ngân hàng và điều tiết lượng tiền cung ứng

Ngân hàng trung ương được giao trọng trách độc quyền phát hành tiền theo các quy định trong luật hiện hành hoặc được chính phủ phê duyệt (về mệnh giá, loại tiền, mức phát hành…) nhằm đảm bảo thống nhất và an toàn cho hệ thống lưu thông tiền tệ của quốc gia.

Đồng tiền do NHTW phát hành là đồng tiền lưu thông hay phương pháp thanh toán hợp pháp duy nhất, nó mang tính chất cưỡng chế lưu hành, vì vậy mọi người không có quyền từ chối nó trong thanh toán. Do đó, việc phát hành giấy bạc của NHTW có tác động trực tiếp đến tình hình lưu thông tiền tệ của một quốc gia.

Nhiệm vụ phát hành tiền còn bao gồm trách nhiệm của NHTW trong việc xác định số lượng tiền cần phát hành, thời điểm phát hành cũng như phương thức phát hành để đảm bảo sự ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế. Để cho giá trị đồng tiền được ổn định, nó đòi hỏi việc phát hành tiền phải tuân theo những nguyên tắc nghiêm ngặt.

Dưới chế độ lưu thông tiền vàng, các NHTW chỉ được phép phát hành tiền giấy vào lưu thông khi được đảm bảo bằng trữ kim hiện hữu nằm trong kho của ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, yêu cầu phải có vàng đảm bảo khi phát hành tiền giấy dẫn đến sự thiếu linh hoạt trong phát hành tiền do khối lượng tiền phát hành không gắn với nhu cầu lưu thông trao đổi hàng hoá mà phụ thuộc vào số lượng vàng dự trữ của NHTW.

Khi nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế vượt quá khả năng đảm bảo của lượng vàng dự trữ, các NHTW không thể đáp ứng được. Do vậy yêu cầu đảm bảo bằng vàng dần dần bị nới lỏng và tiến tới bãi bỏ. Ngày nay, lượng tiền phát hành được quyết định dựa trên cơ sở nghiên cứu về nhu cầu tiền tệ của nền kinh tế thông qua cơ chế tín dụng, được bảo đảm bằng giá trị hàng hoá và dịch vụ.

Ngày nay, trong điều kiện lưu thông tiền giấy không được tự do chuyển đổi ra thành vàng theo luật định, các ngân hàng trên thế giới đều chuyển sang chế độ phát hành giấy bạc thông qua cơ chế tái cấp vốn cho các ngân hàng và hoạt động trên thị trường mở của ngân hàng trung ương. Song song với cơ chế độc quyền phát hành tiền giấy, NHTW thực hiện việc kiểm soát khối lượng tiền cung ứng được tạo ra từ các ngân hàng thương mại, bằng quy chế dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, v.v.

Như vậy, ngân hàng trung ương không chỉ độc quyền phát hành tiền tệ, mà còn quản lý và điều tiết lượng tiền cung ứng cũng như thực hiện chính sách tiền tệ và bảo đảm ổn định giá trị đối nội và giá trị đối ngoại của đồng bản tệ.

Central Bank độc quyền phát hành tiền giấy và kiểm soát lượng tiền cung cầu

Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng

Ngân hàng trung ương không trực tiếp tham gia kinh doanh tiền tệ, tín dụng với các chủ thể trong nền kinh tế mà chỉ thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng với các ngân hàng trung gian bao gồm những hoạt động sau:

Mở tài khoản và nhận tiền gửi của các ngân hàng thương mại

Central bank nhận tiền gửi từ các ngân hàng trung gian dưới hai dạng sau:

Tiền gửi dự trữ bắt buộc: Là khoản tiền dự trữ mà các ngân hàng trung gian bắt buộc phải gửi tại NHTW để nhằm đảm bảo khả năng chi trả của các ngân hàng này trước nhu cầu rút tiền mặt của khách hàng. Tiền dự trữ bắt buộc được tính toán trên cơ sở số dư tiền gửi huy động bình quân trong kỳ tại ngân hàng trung gian nhân với tỷ lệ dự trữ bắt buộc được NHTW quy định trong từng thời kỳ.

Tiền gửi thanh toán: Ngoài khoản dự trữ bắt buộc, các ngân hàng trung gian còn phải duy trì thường xuyên một lượng tiền gửi trên tài khoản tại Central Bank cho các nhu cầu chi trả trong thanh toán với các ngân hàng khác trong cùng hệ thống hoặc đáp ứng các nhu cầu giao dịch với NHTW, chẳng hạn các khoản chi trả liên quan đến các khoản vay từ NHTW.

💡
- Cộng đồng giao lưu và học hỏi phương pháp quản lý vốn, xử lý lệnh âm tài khoản, phương pháp giao dịch, chiến lược đầu tư vàng, ngoại tệ ngắn - trung - dài hạn, cùng ZOOM giao dịch thực chiến tin tức phiên Mỹ hàng ngày từ thứ hai đến thứ sáu.

- Tham gia cộng đồng ZALO: TẠI ĐÂY
- Tham khảo tín hiệu giao dịch TELEGRAM: TẠI ĐÂY

Cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian

Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho các ngân hàng trung gian dưới hình thức tái chiết khấu các chứng từ có giá ngắn hạn do các ngân hàng trung gian nắm giữ. Ngân hàng trung ương cấp tín dụng cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng nhằm bảo đảm đủ phương tiện thanh toán cần thiết cho nền kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Mặt khác, thông qua việc cấp vốn và lãi suất tín dụng, NHTW có thể điều tiết lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế theo yêu cầu của chính sách tiền tệ.

Do việc cấp tín dụng của NHTW gắn trực tiếp với việc phát hành ra một lượng tiền giấy mới nên các điều kiện tín dụng thường được quy định chặt chẽ, được giới hạn bởi hạn mức tái chiết khấu, thời hạn và chủng loại chứng từ có giá được chấp nhận chiết khấu.

Ngoài ra, NHTW còn là nhân tố quan trọng trong việc đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động một cách an toàn thông qua việc cấp tín dụng với vai trò “Người cho vay cuối cùng” của các ngân hàng. Trong trường hợp một ngân hàng đứng trước nguy cơ phá sản, NHTW có thể sẽ cung cấp những khoản tín dụng không hạn chế nhằm giúp kéo ngân hàng đó lên khỏi nguy cơ sụp đổ.

Tuy nhiên không phải tất cả các ngân hàng đều nhận được sự hỗ trợ của NHTW để thoát khỏi nguy cơ phá sản. Ngân hàng trung ương chỉ can thiệp khi sự sụp đổ của ngân hàng đó có ảnh hưởng lớn tới sự tồn tại và an toàn của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Mức lãi suất cho vay của NHTW khi đó cũng thường là lãi suất phạt và ngân hàng nhận hỗ trợ phải chịu nhiều quy định ngặt nghèo của NHTW.

Là trung tâm thanh toán bù trừ cho hệ thống ngân hàng trung gian

Vì các ngân hàng trung gian đều mở tài khoản và ký gửi các khoản dự trữ bắt buộc và dự trữ vượt mức tại NHTW nên các ngân hàng này có thể thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt thông qua NHTW thay vì thanh toán trực tiếp với nhau. Khi đó, NHTW đóng vai trò là trung tâm thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng trung gian.

Việc thanh toán bù trừ được tiến hành giữa các ngân hàng theo định kỳ hoặc cuối mỗi ngày làm việc. Việc thanh toán được thực hiện dựa trên cơ sở trao đổi các chứng từ thanh toán nợ kèm theo bảng kê khai thanh toán bù trừ của các ngân hàng hoặc thực hiện bù trừ thông qua hệ thống vi tính, số dư cuối cùng được thanh toán bằng cách trích tài khoản của người phải trả nợ tại ngân hàng trung ương.

Thông qua dịch vụ thanh toán bù trừ, NHTW góp phần tiết kiệm được chi phí thanh toán cho các ngân hàng trung gian và toàn xã hội, đảm bảo vốn luân chuyển nhanh chóng trong hệ thống ngân hàng cũng như phản ánh chính xác quan hệ thanh toán giữa các chủ thể kinh tế trong xã hội. Ngoài ra, thông qua hoạt động này NHTW có thể kiểm tra sự biến động vốn khả dụng của từng ngân hàng trung gian, là cơ sở để có những giải pháp thay đổi kịp thời.

Central Bank – Ngân hàng trung ương là ngân hàng của chính phủ

Nhìn chung, ngân hàng trung ương là ngân hàng thuộc sở hữu nhà nước, được thành lập và hoạt động theo pháp luật. NHTW vừa thực hiện chức năng quản lý về mặt nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng vừa thực hiện chức năng là ngân hàng của nhà nước với các nghiệp vụ chủ yếu sau:

Central bank là cơ quan quản lý về mặt nhà nước các hoạt động của hệ thống ngân hàng thông qua pháp luật:

  • Xem xét, cấp và thu hồi giấy phép hoạt động đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
  • Quy định các thể chế nghiệp vụ, các hệ số an toàn trong quá trình hoạt động của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng.
  • Kiểm soát tín dụng thông qua cơ chế tái cấp vốn và tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
  • Thanh tra và kiểm soát các hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân hàng thông qua việc áp dụng các chế tài trong các trường hợp vi phạm pháp luật, nhằm bảo đảm cho cả hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và có hiệu quả.
  • Quyết định đình chỉ hoạt động hoặc giải thể đối với các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng trong các trường hợp các chủ thể này vi phạm nghiêm trọng pháp luật hoặc không còn khả năng thanh toán.

Ngân hàng trung ương có trách nhiệm đối với kho bạc nhà nước:

  • Mở tài khoản, nhận và trả tiền gửi của kho bạc nhà nước.
  • Tổ chức thanh toán cho kho bạc nhà nước trong quan hệ thanh toán đối với các ngân hàng trung gian.
  • Bảo quản dự trữ quốc gia về ngoại hối, các chứng từ có giá.
  • Làm đại lý cho kho bạc nhà nước trong một số nghiệp vụ.
  • Cho nhà nước vay trong trường hợp cần thiết

Ngân hàng trung ương đại diện cho chính phủ trong quan hệ với nước ngoài trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng:

Ký kết các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo sự uỷ quyền của chính phủ.

Đại diện cho nhà nước tại các tổ chức tài chính quốc tế mà nước đó là thành viên như IMF (quỹ tiền tệ quốc tế), WB (Ngân hàng thế giới), v.v.

Thực thi chính sách tiền tệ

Chính sách tiền tệ là chính sách kinh tế vĩ mô trong đó NHTW sử dụng các công cụ của mình để điều tiết và kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông nhằm đảm bảo sự ổn định giá trị tiền tệ đồng thời thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và đảm bảo công ăn việc làm.

Chính sách tiền tệ có thể được hoạch định theo một trong hai hướng sau:

Chính sách tiền tệ mở rộng: nhằm tăng lượng tiền cung ứng để khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm với mục đích chống suy thoái kinh tế và giảm tỷ lệ thất nghiệp.

Chính sách tiền tệ thắt chặt: nhằm giảm lượng tiền cung ứng để hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế. Chính sách này được áp dụng trong trường hợp ngăn chặn tình trạng lạm phát.

Tác động của Central Bank – ngân hàng trung ương đến thị trường Forex

Ngân hàng Trung ương đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát nguồn cung tiền trong thị trường tài chính. Điều này có nghĩa là chính sách tiền tệ của NHTW hoặc việc thực hiện chính sách tài khóa có thể có tác động đến định hướng của thị trường Forex.

Hơn nữa, một trong những công cụ chính của bất kỳ ngân hàng trung ương nào là ấn định lãi suất – còn được gọi là chi phí sử dụng tiền tệ. Khi NHTW thay đổi lãi suất, điều này không chỉ ảnh hưởng đến thị trường lãi suất, mà cả thị trường Forex. Các trader tin rằng ngân hàng trung ương sắp bắt đầu một chu kỳ tăng lãi suất sẽ tạo ra một giao dịch lâu dài có lợi cho đồng tiền đó, trong khi các trader dự đoán lập trường ôn hòa từ ngân hàng trung ương sẽ xem xét việc rút ngắn tiền tệ.

Ví dụ:

Trong tình hình hiện nay, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ giữ lãi suất gần bằng 0 cho đến khi nền kinh tế vượt qua tác động của Covid-19. Các nhà hoạch định chính sách của Fed cho biết sẽ không chỉ coi trọng việc sử dụng quyền năng lãi suất thấp ở thời điểm hiện tại mà còn có ý định giữ nó ở mức thấp nhất trong một thời gian nữa, ít nhất cho đến khi nền kinh tế được tin rằng đã vượt qua các tác động gần đây và đang đi đúng hướng để đảm bảo đạt tối đa mục tiêu của Ủy ban về việc làm và ổn định giá cả.

Đó là lý do tại sao giá của đồng USD liên tục giảm trong thời gian vừa qua do những quyết định nới lỏng chính sách tiền tiền tệ kéo dài chưa từng có trong lịch sử của FED.

Như vậy, sự biến động của lãi suất ngân hàng trung ương mang lại cho các trader cơ hội giao dịch dựa trên chênh lệch lãi suất giữa hai loại tiền tệ quốc gia thông qua giao dịch thực hiện. Các trader thực hiện tìm cách nhận lãi qua đêm để giao dịch một loại tiền tệ có năng suất cao so với loại tiền có năng suất thấp. Do đó, để dự báo tỷ giá hối đoái hiệu quả, nhà giao dịch phải hiểu rõ thế giới quan của các Central Bank dựa trên sự năng động của các chỉ số như lạm phát và thất nghiệp.

Điểm mấu chốt

Các Central Bank – Ngân hàng Trung ương có thể được xem là những nhân tố quyền lực nhất trên thị trường tài chính. Quyết định của họ – hoặc thậm chí là một tuyên bố từ một bài phát biểu của một trong những nhà hoạch định chính sách có thể có tác động đáng kể không chỉ đối với tiền tệ, mà còn đối với chứng khoán và thị trường trái phiếu.

Đó là lý do tại sao một nhà giao dịch thận trọng nên theo dõi chặt chẽ mọi thứ liên quan đến các quyết định chính sách tiền tệ và các quyết định của ngân hàng trung ương đặc biệt là từ các ngân hàng trung ương quan trọng như FED hay ECB.

💡
- Các bài viết và nhận định thị trường của Phan Trọng: TẠI ĐÂY

Loading...

Đọc thêm